1 Đặc điểm - Nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành việc sử dụng các máy móc thay thế dần lao động tay chân. Hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, văn học, nghệ thuật, khoa học vươn lên, dẫn đến nhiều phát minh về lý thuyết và thực nghiệm như: kính viễn vọng của Galilee cuối thế kỷ 16, thuyết sóng về ánh sáng của Huygens, định luật hấp dẫn vũ trụ của Issac Newton
- Robert Boyle là người đã nâng hóa học thành một khoa học riêng, độc lập với những thuyết lớn đầu tiên.
2 Sự hình thành hóa học độc lập – ROBERT BOYLE • Robert Boyle (1627 – 1691) xuất thân từ một gia đình quý phái người Anh, thành tựu nổi tiếng của ông là định luật Boyle về khí (1662) “Thể tích một khí tỷ lệ nghịch với áp suất tác dụng lên khí đó”.
• Những cống hiến của ông cụ thể quy về 3 điểm sau:
- Xây dựng mục tiêu độc lập cho Hóa học, tách khỏi giả kim thuật và mối quan hệ lệ thuộc vào y học, xác định “Hóa học là khoa học nghiên cứu các chất và tính chất của chúng”.
- Lấy thực nghiệm làm cơ sở cho Hóa học, xác định thành phần của các vật thể.
- Đưa ra định nghĩa đúng đầu tiên cho nguyên tố hóa học: “Một nguyên tố hóa học là một vật thể không thể phân chia được”.
Định nghĩa của ông đưa ra chưa hoàn chỉnh nhưng có tính chất cách mạng. Ông là một tín đồ hăng hái của thuyết hạt mà thực chất là thuyết nguyên tử: mỗi nguyên tố được cấu tạo từ những hạt vô cùng nhỏ, những hạt này của các nguyên tố khác nhau có hình dạng và kích thước khác nhau, coi hạt luôn chuyển động và khi chúng đến gần nhau cụ thể liên kết với nhau thành những tập hợp lớn hơn là những hợp chất hóa học.
3. Thuyết phlôghittôn hay thuyết nhiên tố E. Stahl - Thuyết phlôghittôn là thuyết lớn đầu tiên trong hóa học nhằm giải thích các hiện tượng về sự cháy
Ernst Stahl (1660 – 1734) là một giáo sư y học và hóa học người Đức xây dựng thuyết phlôghittôn, cho rằng: tất cả các chất cháy được (hoặc khi đun nóng bị biến đổi) đều tạo thành từ hai chất là xỉ và phlôghittôn.
Henry Cavendish (1731 – 1810)
- Ông là nhà hóa học và vật lý học nổi tiếng người Anh.
- Ông nghiên cứu hyđro và gọi nó là “không khí cháy”, ông mô tả hydro như 1 chất riêng biệt với các tính chất đặc sắc. Năm 1766, ông điều chế “không khí cháy” khi cho Fe, Zn, Sn tác dụng với H2SO4(sau đó là HCl).
Cuối TK 18, chế tạo được các khí cầu đầu tiên -> hiđro được sản xuất với quy mô rộng lớn
Daniel Rutherford (1749 – 1811), nhà hóa học Anh, là viện sĩ viện hàn lâm khoa học, phát minh ra khí NO, N2O, NH3 qua chậu thuỷ ngân (trước đó các khí này chỉ được biết ở dạng dung dịch).Thành tựu của ông là phát hiện ra khí oxi đánh đổ căn bản thuyết phlôghittôn. Oxi chiếm vị trí hàng đầu trong các khí nhờ sự phát hiện ra oxi đó đưa lịch sử hóa học sang trang mới. Một nền hóa học hiện đại được hình thành.
Lịch sử tìm ra nguyên tố oxi - Lịch sử ghi nhận tìm ra oxi là 1774 và tác giả gồm có hai người 2 nước khác nhau: Pritxli, người anh và Scheele, người Thụy Điển. Lavoađiê không được công nhận là công đầu trong việc tìm ra nguyên tố oxi, nhưng toàn thế giới công nhận ông có công lao làm cho nguyên tố oxi có tầm quan trọng hàng đầu.
Pritxli sinh tại Anh.
- 1/8/1774 ông khám phá ra “khí oxi”
- 1774 ông thu đươc khí kiềm là khí amoniac.
- Ông khám phá ra khí sunfurơ (1775) và khí cacbon oxit (1799).
- 1/8/1774, ông lấy 1 ít hợp chất thủy ngân màu đỏ (HgO) cho vào ống nghiệm, rồi dùng thấu kính (do ông sáng chế ra) để đốt nóng. Ông nhận thấy có chất khí bốc ra và thủy ngân óng ánh xuất hiện.
- Tình cờ lúc ấy có 1 cây nến đang cháy. Pritxli đưa chất khí này gần cây nến thì thấy cây nến cháy sáng rực chưa từng thấy, làm ông vô cùng ngạc nhiên nhưng không thể nào giải thích nổi.
C.Sile (Cart Vilhelm Scheele,1742 – 1786) là nhà hóa học tài ba, kể về số lượng và tầm quan trọng của các công trình thực nghiệm thì chưa chắc đã có nhà hóa học nào của thế kỉ 18 đã có thể sánh được với Sile. Nhà hóa học Đuma đã nêu một nhận xét tế nhị về ông: “Không có một vật thể nào được Sile đụng đến mà lại không được ông cho một phát minh”
- Tìm ra oxi bằng nhiều cách: nung nóng sanpet (NaNO3 NaNO2 + 1/2O2), nung nóng muối magie nitrat và cả bằng cách chưng cất hỗn hợp sanpêt với axitsunfuric.
5. A.L.Lavoisier. Thuyết oxi hóa. Sự cải tổ hóa học ở Pháp Antoine Laurent Lavoisier (1743 – 1794), là nhà khoa học người Pháp nổi tiếng ở thế kỷ 18, được thưởng huy chương vàng của Viện hàn lâm khoa học Paris với đề tài “Tìm phương pháp tốt nhất để thắp sáng đường phố của một thành phố lớn”.
Đầu năm 1775, ông làm thí nghiệm tách thuỷ ngân oxit thành thuỷ ngân và một khí mới rồi thử các tính chất đặc trưng của nó.
Năm 1777, ông công bố kết quả phân tích không khí bằng thuỷ ngân nung nóng, kết luận rằng không khí gồm hai khí: 1 khí thở được gọi là oxi và một khí không thở được gọi là azot.
Năm 1783, Lavoisier xác định được thành phần của nước là hidro và oxi. Lavoisier không phải là người phát hiện ra oxi đầu tiên nhưng là người có công lớn trong việc khẳng định bản chất và ý nghĩa to lớn của oxi.